|
Một ngày cuối tháng 1, ông Bảy Sơn (93 tuổi) thức dậy muộn trong căn phòng rộng chừng 20m2 của Bệnh viện Thống Nhất (TP. HCM) - khu điều trị dành cho cán bộ cao cấp.
Ngửa cổ trên xe lăn, ông được con dâu đẩy ra hành lang sưởi nắng, đôi tay chằng chịt vết đồi mồi cầm tờ báo. Đưa cho người đồng đội già đã chờ ở góc sáng nhất hành lang từ khá lâu, ông nhờ đọc bài viết nói về cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 tròn nửa thế kỷ trước. Trong đó có ông - Đại tá Trần Minh Sơn, chỉ huy cuối cùng của Biệt động Sài Gòn và biết bao đồng đội.
“Đêm qua, những trăn trở lại ùa về...”, ông Sơn bỏ lửng câu nói, cũng chẳng để ý đến phản ứng của người bên cạnh.
“Anh em biệt động, người là thằng Năm, thằng Bảy, thằng Mười... 16 người hy sinh ở tòa Đại sứ quán Mỹ mà tôi không biết họ là con ai, quê ở đâu. Biệt động mà, để tránh bọn chiêu hồi chỉ điểm, chúng tôi chỉ biết nhau qua bí số, bí danh... Mặt cũng luôn bịt kín nên chỉ thấy nhau qua ánh mắt. Sau trận đánh, tôi làm đủ cách để tìm kiếm hài cốt họ nhưng không thấy. Đó là máu của anh em mà tôi nợ suốt đời”, ông Bảy Sơn nói.
Vẫn giọng nghèn nghẹn, ông bảo: “Cha mẹ các chiến sĩ biệt động đánh vô tòa Đại sứ cứ hỏi tôi ‘chú ơi, con tôi đâu...’. Tôi không biết trả lời họ làm sao”.
|
Ông Bảy Sơn kể về trận đánh vào tòa Đại sứ quán Mỹ năm 1968. |
Chiều 23 Tết Mậu Thân 1968, Bảy Sơn (Phó tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định, kiêm Tham mưu trưởng biệt động Sài Gòn) cùng tướng Trần Hải Phụng (tức Hai Phụng, Tư lệnh Phân khu 6) đến gặp ông Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) khi đó là Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định.
Họ báo cáo kế hoạch tấn công 10 mục tiêu ở trung tâm Sài Gòn cho một chiến dịch lớn chưa từng có. Đó là những cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn như: Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (Dinh Độc Lập), Đài phát thanh, Đài truyền hình, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha Cảnh sát, Biệt khu Thủ Đô, Khám Chí Hòa...
"Tại sao không đánh vào Đại sứ quán Mỹ?", ông Sáu Dân đặt vấn đề.
"Thật ra chúng tôi không hiểu rõ tình hình chính trị thế nào, sợ phức tạp không dám chuẩn bị", ông Hai Phụng đáp, sau một thoáng do dự.
Giai đoạn cuối của "chiến tranh đặc biệt" 1965, cục diện chiến trường đã xuất hiện khả năng giành thắng lợi cho miền Bắc. Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam chủ trương tiến công quân sự vào các thành phố, thị xã toàn miền Nam kết hợp với sự nổi dậy quần chúng, làm phá sản chiến lược của Mỹ.
Bộ đội hành quân trong cuộc tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. |
|
27 Tết Mậu Thân, Ba Đen dẫn Đội 11 đi trinh sát thực địa ở Sài Gòn. Sơ đồ bên trong toà Đại sứ Mỹ đã có tình báo quân sự cung cấp. Đội biệt động tiến vào nội đô trên những chiếc Honda, hoặc đóng giả làm người chạy xích lô chở nhau đi thám thính.
Sau đó, ông Bảy Sơn đưa lực lượng đánh tòa Đại sứ vào ở sẵn các "lõm chính trị" trong nội thành ăn Tết. 16 người lính tuổi đôi mươi quây quần bên bữa ăn trên đường Minh Phụng (gần vòng xoay Cây Gõ, quận 6) với bánh tét, mứt, trà...
Em út của đội, Vinh - 17 tuổi, hào hứng khoe: "Đánh xong trận này em về quê cưới vợ". Khi ông Bảy Sơn hỏi về quyết tâm chiến đấu, Vinh khẳng khái: "Chú Bảy đừng lo, nuôi quân ba năm dụng một giờ. Tụi con quyết sống mái, dù có hy sinh".
Anh em đều vỗ tay hoan nghênh Vinh, trong lòng tin tưởng trận này sẽ thắng.
Cùng lúc, Đội 5 biệt động Sài Gòn đang ăn Tết tại cơ sở ở Trảng Bàng (Tây Ninh). Mục tiêu công kích vẫn được giữ bí mật. Đội trưởng Tô Hoài Thanh (Ba Thanh) nói "đây là trận đánh thập tử nhất sinh, ai không muốn tham gia có thể xin lui".
|
Đêm giao thừa Mậu Thân 1968, gần nửa quân Việt Nam Cộng hòa nghỉ ngơi. Tuy nhiên, ám ảnh bởi cái bẫy Khe Sanh, chính quyền Sài Gòn tăng cường phòng thủ. Khắp các giao lộ đều có nhiều xe Jeep gắn đại liên, các đội tuần tra nhan nhản trên đường phố.
22h45 ngày 30/1/1968 (Mùng 1 Tết), ông Võ Văn Thạnh (Ba Thắng) - Chính ủy Sở chỉ huy tiền phương Phân khu 6 đọc lời hiệu triệu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng thời phổ biến giờ G, ra lệnh cho các lực lượng biệt động tấn công những mục tiêu trong kế hoạch.
2h Mùng 2 Tết, một bộ phận phối thuộc cho Tiểu đoàn 268 Phân khu 2 ở phía Tây Tân Sơn Nhất bắn tám quả pháo 82 ly vào sân bay. Cả Sài Gòn coi đó là hiệu lệnh tấn công.
Nhận tín hiệu, ở hướng khác Ba Đen dẫn Đội 11 tiến gần tòa Đại sứ Mỹ. Họ dùng xe bán tải có hoả lực B40 yểm trợ đột nhập thẳng cổng toà nhà.
Hai biệt động cầm AK quét nhiều loạt đạn, diệt hai quân cảnh Mỹ ở cổng chính. Tiếp đó biệt động dùng thuốc nổ phá thủng tường, tiến đánh vào trong.
Họ chia làm ba mũi: cổng trước, cổng sau (phía đường Mạc Đĩnh Chi) và dãy nhà nhân viên hành chính. Đội 11 nhanh chóng chiếm gần hết tầng một và tiến lên tầng 2-3.
Quân Mỹ trong trận biệt động đánh tòa Đại sứ năm 1968 ở Sài Gòn. |
"Đó là kỳ tích của biệt động Sài Gòn. Họ đã hoàn thành nhiệm vụ, chấp nhận hy sinh", ông Bảy Sơn nói về đồng đội trong cuộc tấn công tòa Đại sứ.
|
Cùng thời điểm, tại Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, Đài phát thanh, Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Tổng nha Cảnh sát, Biệt khu Thủ Đô... đồng loạt vang tiếng súng.
Phối hợp với biệt động nội thành, các tiểu đoàn mũi nhọn của 5 phân khu còn lại, các trung đoàn quân chủ lực Quân giải phóng tấn công hiệp đồng vào một loạt mục tiêu quan trọng được bố trí bảo vệ vòng trong và vòng ngoài Sài Gòn.
|
Bối cảnh sau trận biệt động tấn công Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn năm 1968. Ảnh: LIFE. |
Trên toàn miền Nam, quân giải phóng đồng loạt tấn công vào 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ; 4 sở chỉ huy quân khu và quân đoàn; hầu hết các sở chỉ huy cấp sư đoàn; 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần.
Bản tổng kết hoạt động hành quân của Trung tâm hành quân, Bộ Tổng tham mưu Quân lực chính quyền Sài Gòn cho biết: "Từ ngày 30/1 đến 4/2/1968, tổn thất quân Mỹ - chính quyền Sài Gòn có 371 lính tử thương, 997 bị thương, 23 mất tích, 1.041 vũ khí bị mất".
|
Ngày 7/2/1968 - một tuần sau khi chiến dịch Mậu Thân nổ ra - ống kính bắt được vẻ thất thần của Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara trong một cuộc họp nội các.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 được những nhà nghiên cứu lịch sử đánh giá là sự kiện có tính bước ngoặt trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Đem lại một sự chuyển hướng không tránh khỏi trong chiến lược của Mỹ, từ chỗ muốn đánh bại cộng sản Việt Nam, đến phải tìm cách để thoát ra khỏi cuộc chiến "trong danh dự".
Tiến sĩ James Willbanks, cựu trung tá Bộ binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam với vai trò cố vấn, Giám đốc Ban lịch sử quân sự Mỹ, cho rằng những diễn biến trên đã tác động mạnh đến quan điểm của người Mỹ. Họ cảm thấy sốc khi trước đó hình dung và tin tưởng rằng, kẻ thù của nước Mỹ đang ở bên bờ vực thẳm thì bất ngờ kẻ thù đó có đủ lực lượng để tiến hành cuộc tổng công kích rộng khắp. Người Mỹ cảm thấy bất lực, mất niềm tin vào nội các của Tổng thống Lyndon B.Johnson.
Người Mỹ biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam năm 1968. |
|
Binh lính đoàn không vận Mỹ giơ tay ra hiệu cho trực thăng cứu hộ hạ cánh để cứu đồng đội bị thương ở Huế. Ảnh: AP. |
Sau hòa đàm Paris và cuộc tấn công đợt ba của quân giải phóng, ngày 31/10/1968, Tổng thống Johnson ra lệnh cho hải quân, không quân, pháo binh ngưng vô điều kiện mọi cuộc oanh tạc lãnh thổ miền Bắc.
|
"Đồng đội hy sinh đều cùng làng cùng xã, giữa chiến trường khốc liệt không có chỗ chôn, khi rút lui bị bao vây tứ phía đành đau đớn bỏ lại. Chiến tranh thì chẳng có người thắng kẻ thua, chỉ có mất hết", giọng Trung tá Bùi Hồng Hà (cựu chiến sĩ pháo binh Tiểu đoàn 16) đầy ngậm ngùi.
Ông cũng luôn thấy khó thở mỗi khi nhắc đến hàng trăm đồng đội thiệt mạng trong trận tấn công vào sân bay Tân Sơn Nhất. Hơn một nửa trong số đó đến nay chưa tìm thấy hài cốt.
"Tiểu đoàn hơn 500 người nhưng rút ra không còn bao nhiêu, không biết hy sinh thế nào. Sau này, đơn vị tập kết lại mới biết còn 380 người nằm lại sân bay", ông nói, mắt đỏ hoe. Đợt tìm mộ tập thể trong sân bay hơn 20 năm trước, họ chỉ tìm thấy hài cốt của 181 người dưới một cái giếng cạn.
Cảnh sát vũ trang Việt Nam Cộng hòa trên đống đổ nát ở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Ảnh: AP |