Nghịch lý không thể chấp nhận!

Thứ ba, 16/07/2013, 07:39
Trước thông tin Chính phủ Thái Lan quyết định giảm 20% giá thu mua gạo, đồng thời xả kho tạm trữ, nhằm hạ giá gạo xuất khẩu, từ đó nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, các chuyên gia của Viện Nghiên cứu thương mại (Bộ Công thương) cho rằng việc này không tác động nhiều đến tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam, vì hiện giá gạo xuất khẩu của ta đang thấp hơn Thái Lan - và cả các "cường quốc" xuất khẩu lúa gạo khác như Ấn Độ, Pakistan.

Mặc dù vậy, tuyên bố trên rõ ràng chưa thể khiến dư luận an lòng. Bởi giải thích như thế đồng nghĩa với việc khẳng định một thực tế: Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lâu nay đã tách ra khỏi mặt bằng giá thế giới và trở thành nguồn cung cấp rẻ nhất. Giá xuất khẩu thấp đã khiến hạt gạo Việt Nam mất vị thế và sức cạnh tranh, và đặc biệt là lượng xuất khẩu nhiều nhưng giá trị thu về không cao.

Tuy là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (từng có thời điểm đứng vị trí đầu), song kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta lại không bằng so với các nước xuất khẩu ít hơn. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn giá gạo của Ấn Độ và Pakistan, dù chất lượng gạo của họ không bằng của ta. Lượng xuất khẩu nhiều nhưng kim ngạch lại giảm (6 tháng đầu năm nay, xuất khẩu gạo tăng 2,55% so với cùng kỳ năm 2012, nhưng kim ngạch lại giảm 2,04% do giá giảm).

Việt Nam đã trở thành một "cường quốc" lúa gạo, thế nhưng nông dân Việt Nam - những người đang "một nắng hai sương" trực tiếp làm ra hạt gạo - vẫn là thành phần có thu nhập thấp nhất trong xã hội, phải sống trong cảnh nghèo khó. Chưa hết, trong khi giá thu mua gạo (từ nông dân) và giá xuất khẩu gạo (của các doanh nghiệp Việt Nam) rất bèo bọt, thì người tiêu dùng trong nước lại phải mua gạo bán lẻ với giá cao gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi so với giá xuất khẩu.

gạo việt nam

Nghịch lý không thể chấp nhận!

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn nhiều so với giá gạo của các nước khác.

Thứ nhất là chính sách đầu tư cho tam nông (nông nghiệp, nông thôn và nông dân) của ta còn nhiều bất cập. Phần lớn những cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư cho phát triển nông nghiệp; thu mua, tạm trữ… sản phẩm thường nghiêng về doanh nghiệp chứ người nông dân ít được hưởng lợi. Đáng trách là doanh nghiệp được hưởng nhiều ưu đãi, nhất là được hỗ trợ vay vốn không lãi suất để thu mua gạo tạm trữ theo giá sàn (do Nhà nước quy định), nhưng thực tế họ lại không mua lúa trực tiếp của nông dân mà mua qua thương lái trung gian; mức độ đầu tư trở lại vào nông nghiệp chưa tương xứng, nặng về khai thác hơn là đầu tư…

Đặc biệt, dù đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo từ 30 năm nay, hiện có cả trăm giống lúa đưa vào sản xuất, nhưng đến nay gạo Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu. Tình trạng mỗi nơi trồng một giống lúa, thương lái mua gom, mang về trộn lẫn, xay xát, đánh bóng rồi bán lại cho doanh nghiệp xuất khẩu… diễn ra phổ biến. Đáng nói nữa là mặc dù chủ trương đầu tư cho nghiên cứu, lai tạo giống lúa, nhất là đầu tư xây dựng thương hiệu cho lúa gạo Việt Nam - sản phẩm trọng điểm quốc gia - được Nhà nước quan tâm, chú trọng, với sự tham gia của nhiều bộ, ngành, tiêu tốn nguồn kinh phí mỗi năm hàng trăm tỷ đồng, nhưng kết quả thu được vẫn chưa thỏa đáng, chưa xứng với đầu tư, trông đợi của Nhà nước và nông dân. 

Bởi vậy, việc xóa bỏ những nghịch lý trên đang là đòi hỏi bức thiết, sẽ giúp hạt gạo Việt Nam khẳng định chỗ đứng xứng đáng trên thị trường thế giới, và quan trọng hơn là giúp người nông dân có cuộc sống ổn định, góp phần phát triển đất nước.

Theo Hà Nội Mới

Các tin cũ hơn