Những bí ẩn 700 năm chưa được giải mã trong ba ‘quả đồi’ ở Thái Bình

Thứ hai, 11/03/2019, 11:01
Ông Hùng và hai thanh niên chạy bán sống bán chết, trèo tót lên khỏi hầm mộ, bởi từ các ngóc ngách, khe kẽ, rắn độc túa ra phì phò đuổi người.

Kỳ 1: Cuộc tàn phá "nghĩa địa" nhà Trần

Những ngày tháng 2 âm lịch, Khu di tích Đền Trần ở Hưng Hà (Thái Bình) đón đông đảo du khách đến dự hội. Nhà nghiên cứu sử làng Đặng Hùng (Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình) năm nào cũng gọi tôi về Thái Bình một là viếng mộ vua Trần, hai là “tiết lộ” thêm một ít thông tin mới mà ông sưu tầm được.

Đã nửa cuộc đời, ông Hùng dành tâm huyết cho việc nghiên cứu về đời Trần, đặc biệt là thời kỳ nhà Trần ở Thái Bình. Vậy nên, năm nào cũng vậy, cứ đến cuối năm và đầu năm, ông Hùng lại về làng Tam Đường (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình) thắp hương ở đền thờ, thăm viếng phần mộ các vị vua Trần, trước khi ra mộ tổ tiên mình.

Tôi đã từng có nhiều năm theo chân nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành (nguyên giám đốc Bảo tàng Hải Dương) đi đào mộ cổ, đặc biệt là những ngôi mộ Hán, chủ yếu gồm mộ xây gạch và mộ xếp cũi gỗ ở vùng Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh. Mộ Hán là tên gọi chung một số loại mộ xây vào thời Bắc thuộc ở nước ta. Loại hình mộ này còn kéo dài đến thời Trần, nhưng thời này quy mô nhỏ hơn.

Những ngôi mộ của quan lại, nhà giàu, vốn đắp to như quả đồi, nhưng trải mưa nắng mài mòn hàng ngàn năm, con người tàn phá, biến động địa chất, mà giờ đây, nó chỉ còn như cái gò đống, lùm đất giữa cánh đồng mà thôi. Những gò mộ ấy vẫn còn rải rác ở các cánh đồng vùng đồng bằng Bắc Bộ, tương đối nhiều ở Hải Dương.

Những gò mộ khổng lồ

Dù đã được tận mắt nhiều gò mộ Hán khổng lồ, song tôi vẫn thực sự choáng ngợp trước 3 gò mộ ở làng Tam Đường (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình). 3 gò mộ uy nghi giữa cánh đồng lúa rộng mênh mông. Có lẽ, đây là những gò mộ cổ lớn nhất từng được biết đến ở nước ta.

Chúng ta vẫn biết đến Thái Bình là tỉnh không có đồi núi, nhưng đứng trước 3 ngôi mộ này, có lẽ phải xem xét lại. Bởi vì, 3 gò mộ ấy đúng là 3 quả đồi nho nhỏ. Quả là một công trình nhân tạo đáng kể của thời Trần.

Ông Cường, Phó ban quản lý di tích đền Trần tại Tam Đường dẫn chúng tôi lên gò mộ mà người dân gọi là Phần Bụt. Đứng dưới chân gò mộ, càng thấy công trình mồ mả thực là vĩ đại. Chưa ai đo đạc những ngôi mộ này, nhưng theo ước tính của nhà nghiên cứu Đặng Hùng, thì diện tích tính dưới chân đế của nó cũng phải đến cả héc ta.

Mộ Vua Trần.

Ngay dưới chân mộ, một nhóm chị em phụ nữ đang miệt mài cắt cỏ. Ngày giáp Tết, người dân đi tảo mộ tổ tiên, thường dọn cỏ sạch sẽ, nhưng với 3 gò mộ khổng lồ này, thì nhân công dọn cỏ quanh năm suốt tháng.

Một chị bảo, với 5 nhân công, thì phải cắt cỏ liên tục một tuần mới xong được một gò mộ. Mỗi gò mộ thu được mấy chục tấn cỏ. Không hiểu sao, cỏ ở những gò mộ này lại tốt đến thế, chẳng chăm bón gì mà cứ tốt bời bời, cao đến thắt lưng.

Chị em nhân công dọn cỏ cứ cắt theo lối, như kiểu người nông dân Bắc Bộ gặt lúa thành hàng, rồi xoáy trôn ốc dần lên đến đỉnh mộ. Dọn đến đỉnh mộ thì ở dưới chân mộ cỏ đã lại xanh rờn. Vậy nên, cứ dọn cỏ xong phần mộ thứ 3, thì lại chuẩn bị cho cuộc dọn cỏ ngôi mộ đầu tiên.

Việc dọn cỏ của chị em nhân công quanh năm suốt tháng không ngừng nghỉ. Nếu không dọn cỏ thì phần mộ của các vị vua sẽ thật thảm hại, trông như núi cỏ khổng lồ. Có một cách dọn cỏ rất nhanh và hiệu quả, đó là phun thuốc diệt cỏ. Thế nhưng, chẳng ai dám cho phép đem thuốc độc phun vào mộ vua.

Cũng không ai được phép đưa máy cắt cỏ đến, vì tiếng nổ sẽ làm kinh động nơi yên nghỉ của vua. Mọi việc liên quan đến những gò mộ này đều phải làm thủ công. Riêng việc dọn cỏ cho 3 “quả núi” này cũng là một kỳ công.

Các nhân công cắt cỏ quanh năm suốt tháng ở 3 gò mộ vua.

Ông Cường đứng dưới chân mộ khấn vái, xin phép các vua Trần cho phóng viên được trèo lên mộ. Tôi vạch cỏ trèo lên đỉnh mộ. Đứng trên nóc mộ vua, nhìn thấy làng mạc bốn phương, thấy cả đê sông Hồng phía xa.  Tôi trộm nghĩ, nếu để cho đám thợ săn chuột đào bới, thì có thể tóm được cả tấn chuột ở một ngôi mộ. Chuột đào nham nhở gò mộ, tạo thành những đống mà (đất do chuột moi ra) to tướng. Các nhân công lại phải hì hục vun đất đắp lại.

Chị em nhân công cắt cỏ kể cho tôi nghe về chuyện gặp những con chuột to như con mèo cắn nhau chí chóe ngay trước mặt các chị. Vì không ai được phép lên gò mộ đào hang bắt chúng, nên chúng cũng dạn người, nô đùa ngay trước mắt các chị.

Ở các gò mộ này có rất nhiều chuột đất và chuột cống. Người Thái Bình gọi chuột cống là một loại chuột rất lớn, nặng trên dưới 1kg, chuyên ăn gà, vịt, chim chóc, chứ không phải gọi chung cho các loài chuột sống dưới cống ở đô thị.

Chuột đất cũng là loại chuột to, nặng ngót 1 kilogam, có màu xám. Hai loại chuột này là đặc sản của quê lúa, thịt rất thơm ngon, được bán ở chợ với giá 200 ngàn đồng/kg. Tuy nhiên, do bị săn bắt nhiều, nên hiện tại hai giống chuột này khá hiếm.

Chuột lắm thì rắn độc ắt sẽ nhiều. Người dân trong làng Tam Đường ít khi dám trèo lên những gò mộ này. Hang hốc nhiều, cỏ rậm rạp lút gối, nên chuyện dẫm phải rắn độc và bị đớp rất dễ xảy ra. Người dân trong vùng vẫn thường xuyên tóm được rắn độc khi chúng bò ra từ những gò mộ này.

Cũng có nhiều người bị rắn độc ở các gò mộ cắn và trúng độc. Chuyện chết người cũng đã từng xảy ra. Thậm chí, từ xưa đến nay, người dân không dám thả trâu đến gần gò mộ. Bởi vì, trâu đến chân gò mộ ăn cỏ thường xuyên bị rắn độc cắn chết. Theo những người có kinh nghiệm, chỉ có rắn hổ chúa mới đủ lượng độc tố giết chết trâu.

Giới săn rắn nhìn những gò mộ này mà thèm thuồng, nhưng chẳng ai cho phép họ được đào mộ vua để bắt rắn, nên đành chịu.

Nhà nghiên cứu Đặng Hùng vẫn còn nhớ như in cái lần lò dò mò xuống một hầm mộ sau khi người dân đào bới làm lộ ra. Với sự giúp đỡ của hai thanh niên, ông Hùng đã đốt đuốc chui xuống hầm mộ nghiên cứu.

Ông Hùng sung sướng đến chết lặng khi dạo trong đường hầm kè đá, gỗ uy nghi trong lòng mộ. Tuy nhiên, ông và hai thanh niên đã chạy bán sống bán chết, trèo tót lên khỏi hầm mộ, bởi từ các ngóc ngách, khe kẽ, rắn độc túa ra phì phò đuổi người cứ như trong phim kinh dị.

Người dân trong làng tin rằng có Thần Rắn bảo vệ nơi yên nghỉ của các vị vua, nên không ai dám xuống hầm nữa. Đến năm 2000, sau khi họp bàn, người dân trong làng đã lấp hầm mộ lại, một là để người dân không tò mò chui vào bị rắn độc cắn, hai là để vua Trần được yên nghỉ.

Các gò mộ nằm giữa cánh đồng, đã được quy hoạch vào khu vực di tích đền Trần.

Tàn phá “nghĩa địa” nhà Trần

Người dân Tam Đường ai cũng biết câu “Tiền tam thai, hậu thất tinh” và theo lý giải của họ, câu nói ám chỉ phía trước làng có 3 gò mộ, còn phía sau làng có 7 gò mộ, người dân gọi là khu mả vua. Tuy nhiên, 7 gò mộ ở cánh đồng sau làng nhỏ hơn những gò mộ trước làng, nên trải thời gian mưa nắng mài mòn, cùng với sự phá hủy của con người đã biến mất hoàn toàn.

Phía trước làng, tức phía Nam gồm có 3 gò mộ rất lớn. Chếch lên phía Bắc còn có một gò nữa, chỉ nhỏ hơn một chút. Mỗi gò mộ có tên riêng, đó là Phần Cựu, Phần Bụt, Phần Trung và Phần Đa, là nơi đặt cốt các vị vua Trần.

7 ngôi mộ nhỏ hơn ở phía sau làng, là nghĩa địa chôn Trần Kinh, Trần Hấp, Trần Lý, Trần Thừa cùng các công chúa, hoàng hậu thời Trần.

Về câu nói “Tiền tam thai, hậu thất tinh”, nhà nghiên cứu Đặng Hùng lại có cách lý giải hơi khác. Theo ông, đất Ngự Thiên (phủ Long Hưng) xưa được người đời truyền tụng là đất mả sao. Đó là các gò đống nổi lên, ở trên có các chòm cỏ xanh hình tròn, đường kính độ 1 mét, từ xa nhìn lại trông không khác gì các ngôi sao ở trên trời.

Vì thế đất có đặc điểm đó, nên còn có tên là hương Tinh Cương. Tinh có nghĩa là ngôi sao, Cương có nghĩa là gò đất nổi cao lên. Qua quá trình phù sa bồi đắp, đất Tinh Cương xưa có hình thế (theo cách gọi của các thầy địa lý Tàu) “Tiền tam thai, hậu thất tinh”, là đất phát tướng, phát vương.

Nếu theo cách lý giải của ông Hùng, thì cái hình thế “Tiền tam thai, hậu thất tinh”, ám chỉ các gò đất có trước thời Trần (hình thế đẹp nên tổ tiên nhà Trần mới mang mộ về đặt), hoặc câu đó không ám chỉ những gò mộ, mà ám chỉ thế đất.

Sỏi được đưa từ xa về trộn với đất rồi đắp thành đống lớn, để chống sói lở.

Các cụ già người Tam Đường thì nhất nhất khẳng định câu nói đó ám chỉ các gò mộ. Theo các cụ, những năm 60 của thế kỷ trước, phía sau làng, gần sông Thái Sư vẫn còn các gò đất lớn. Dân làng đã phát động phong trào phá gò đống để mở rộng ruộng đồng. Quá trình san mộ làm ruộng cũng phát hiện quách đá, quách gỗ trong các gò đống. Thập kỷ 70, các nhà khoa học vẫn đào bới ở khu vực đó để tìm dấu tích các gò mộ.

Trong quá trình tìm hiểu về những gò mộ khổng lồ ở làng Tam Đường, tôi được nghe nhiều câu chuyện ly kỳ về “quả núi” có tên Phần Cựu. Đây là ngôi mộ lớn nhất ở làng, lớn gấp đôi những phần mộ còn lại. Tuy nhiên, người dân trong làng Tam Đường lại ít gọi bằng cái tên này, mà họ gọi là Phần Lợn. Chẳng lẽ người dân lại… xúc phạm vua bằng cách gọi như thế?

Chuyện rằng, vào thập kỷ 50 của thế kỷ trước, ông Tuyên là người chuyên nghề bắt rắn, đi soi cá lúc nửa đêm về sáng ở cánh đồng làng, bỗng gặp đàn lợn con nhởn nhơ… gặm cỏ. Ông cầm nơm (dụng cụ để bắt cá) đuổi theo và úp được một con. Những con lợn trong đàn sợ quá chạy te tua về phía Phần Cựu là lẩn hết vào những bụi cỏ, tìm mãi không thấy.

Lễ hội thi nấu cá đầu năm ở đền Trần.

Ông Tuyên trói chú lợn con này lại rồi xách về nhốt trong nhà. Lạ thay, sớm hôm sau, con lợn biến thành cục vàng! Tuy nhiên, ngay hôm đó, ông Tuyên lăn ra ốm, nằm liệt giường liệt chiếu, cấm khẩu.

Gia đình sợ quá đi xem bói, thì thầy nào cũng phán đó là lợn thần, phải trả ngay. Lập tức, gia đình mang cục vàng chôn vào một chỗ bí mật trên gò mộ. Ông Tuyên tỉnh táo dần, rồi khỏe mạnh như thường.

Ông Tuyên mới mất năm 2005. Lúc còn sống, ông vẫn kể chuyện này cho mọi người nghe với thái độ rất nghiêm túc. Người dân trong làng Tam Đường đều biết đến câu chuyện của ông.

Ông Cường, Phó ban quản lý khu di tích đền Trần chỉ cho tôi biết nơi từng có một “quả núi”, có tên Phần Cựu. Theo ông Cường, xưa kia, “quả núi” này cao vượt ngọn tre của làng. Gò mộ cao và to đến nỗi, có năm vỡ đê sông Hồng, nước dâng ngập nóc nhà, người dân trong làng kéo hết lên nóc ngôi mộ này lánh tạm. Cả làng dựng lều, nấu nướng, sống một thời gian dài trên đỉnh ngôi mộ.

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, bộ đội ta còn mở đường để kéo pháo đặt trên đỉnh ngôi mộ này để bắn máy bay Mỹ cho… gần. Ngôi mộ cũng biến thành nơi bộ đội, dân quân tập luyện làm quen với môi trường núi non. Những tấm bia tập bắn được dựng lên dưới chân và lưng chừng mộ. Dân quân và bộ đội cứ tha hồ bắn mà không sợ đạn lạc đi nơi khác, bởi đã có “quả núi” án ngữ phía sau những tấm bia.

Thời kỳ đó, dù dân làng vẫn truyền miệng đây là những ngôi mộ vua, song không ai thờ cúng, không ai quản lý, nên chỉ coi đó là những quả núi đất bình thường. Trong quá trình bộ đội, dân quân và người dân đào đường dắt pháo lên gò mộ, rồi đào hầm trú ẩn, đã phát hiện ra những quách đá, quách gỗ, đường hầm trong mộ.

Phát hiện ra mộ cổ, các nhà khoa học ở trung ương đã về khai quật. Theo lời đồn của người dân thì các nhà khoa học đã mang đi không biết bao nhiêu đồ cổ thu thập được từ ngôi mộ này. Hiện Bảo tàng Thái Bình vẫn còn cất giữ bí mật nhiều đồ quý.

Các nhà khoa học rút đi, ngôi mộ lại bỏ hoang phế. Điều đáng quan tâm là ngôi mộ này là một núi sỏi khổng lồ. Thời Trần, người ta đã chở hàng vạn tấn sỏi cuội từ Ninh Bình về đây, luyện với đất sét rồi đắp ngôi mộ thành quả núi.

Việc trộn đất sét với sỏi cuội sẽ khiến ngôi mộ được bền bỉ trước sự tàn phá của thiên nhiên, con người. Trải 700 năm, chiến tranh, con người tàn phá, đình đền, hoàng thành đổ nát, song những gò mộ vẫn đứng sừng sững. Quả là một công trình kỳ công, vĩ đại.

Thập kỷ 80, phong trào xây nhà bêtông bắt đầu rầm rộ ở Thái Bình. Để có nguyên liệu đổ mái, người dân Tam Đường đã ra mộ đãi đất lấy sỏi. Nhà máy đường Hưng Nhân cũng được xây dựng từ đá sỏi ở ngôi mộ này. Mấy chục ngôi nhà ở Tam Đường và nhà máy đường Hưng Nhân cũng chỉ dùng hết một góc nhỏ của ngôi mộ. Hiện những ngôi nhà làm bằng sỏi cuội lấy từ mộ vua vẫn còn ở Tam Đường.

Thời kỳ đó, đường làng Tam Đường lầy lội lắm, cứ mưa xuống là bùn ngập mắt cá chân. Thế là cả làng chở sỏi cuội rải đường. Ngôi mộ này đủ làm mấy km đường làng, kéo ra tận tỉnh lộ. Những khối đá khổng lồ bị giật mìn nung vôi.

Theo cụ Lê Như Ngân, những phiến đá dựng mộ lớn khủng khiếp. Mộ to như một căn nhà, được xếp bằng các phiến đá. Có phiến đá rộng đến 15 mét vuông và dày nửa mét, được mài nhẵn, xếp khít. Gạch ngói xây mộ cũng rất đẹp, mang hình thù rồng phượng. Những khúc gỗ vàng tâm moi lên cưa xẻ làm vật dụng vẫn vàng ươm.

Vào năm 1980, người dân tiếp tục đào mộ đãi sỏi, làm lộ đường hầm ở Phần Đa. Theo cụ Ngân, quách đá của Phần Đa cũng rất lớn, gần bằng Phần Cựu. May mắn là các nhà khoa học đã kịp thời phát hiện, bảo vệ ngôi mộ này, nên giữ được đến ngày hôm nay.

Theo VTC

Các tin cũ hơn