Chống ngập các thành phố ĐBSCL như thế nào?

Thứ năm, 13/12/2012, 15:42
Theo Tổng cục Thủy lợi, do địa hình bằng phẳng, cao độ trung bình từ 0,7 - 1,2m nên vùng ĐBSCL thường bị ngập diện rộng với diện tích từ 1,2 - 1,9 triệu ha trên tổng diện tích tự nhiên 3,96 triệu ha. Nguyên nhân được nhận diện không chỉ từ biến đổi khí hậu, nước biển dâng mà còn có “sự tiếp sức” của con người.

Những năm gần đây, tình trạng ngập úng đô thị liên tục xảy ra tại Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long...

Ngập nước, Cần Thơ
Đường phố nội ô Cần Thơ ngập nước khi triều cường. Ảnh: TR.L

Nước đã ngập dưới chân người thành thị

Theo “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng ở Việt Nam” do Bộ TNMT công bố, thì mực nước biển Đông vùng ĐBSCL sẽ dâng lên khoảng 12cm vào năm 2020, 17cm vào năm 2030, 30cm vào năm 2050 và 75cm vào năm 2100, có khoảng gần một nửa diện tích ĐBSCL bị ngập.

Nhưng không chỉ là “kịch bản”, tình trạng ngập úng đô thị đã xảy ra thường xuyên những năm gần đây, thời gian kéo dài  từ 2 - 6 tháng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, sinh hoạt, đi lại của người dân.

Nhiều công trình xây dựng có cao trình vượt đỉnh lũ lịch sử năm 2000 đã bị ngập. Hàng năm, nhiều nơi trong nội ô các thành phố Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long bị ngập sâu phổ biến từ 0,3 - 1,5m. 

Theo khảo sát của Bộ Xây dựng, nếu vào năm 2000, Cần Thơ chỉ có vài vùng ven bị ngập dưới 30cm, thì đến năm 2010 có 41/81 tuyến đường - chiếm 50,6% các tuyến đường trung tâm - bị ngập. Nhiều đường chính trong thành phố đã “biến thành sông”.

TP.Cà Mau ngập phổ biến 10 - 35cm. Vĩnh Long có 22 vị trí ngập, do nước mưa chiếm 54%, do mưa, triều cường, lũ chiếm 46%. Các thành phố ĐBSCL đang bị “tác động kép” do triều cường, nước dâng và mưa, nước thải chậm tiêu thoát.   

Ngập nước, Cần Thơ
 Một con hẻm trên đường Nguyễn Văn Cừ (phường An Hòa, quận Ninh Kiều, Cần Thơ) cứ mưa là ngập! Ảnh: L.N.G

Con người đã kéo mực nước lên

Theo Cục Quản lý đê điều và phòng chống lụt bão Trung ương, tổng lượng lũ năm 2011 ở ĐBSCL chỉ đạt 80 tỉ mét khối, bằng 70% tổng lượng lũ năm 2000; nhưng mực nước đo được trên sông Hậu tại Cần Thơ, trên sông Tiền tại Mỹ Thuận đều vượt đỉnh lũ năm 2000. 

Các nhà khoa học đã nhận diện hiện tượng “ngập tràn cục bộ” mà tác nhân chủ yếu là do tình trạng xây dựng các công trình bờ bao khép kín tiểu vùng để sản xuất lúa vụ 3, “đeo bám” mục tiêu ngắn hạn tăng sản lượng lúa, cây ăn trái, nuôi thủy sản... theo kiểu “mạnh ai nấy lo”.

Tình trạng này đã phá vỡ các “túi chứa” nước lũ được điều tiết tự nhiên hàng ngàn năm qua ở vùng đất này.

“Hệ số quay vòng đất cao” trong sản xuất nông nghiệp khiến lũ không vào được nội đồng để mang phù sa - thiếu “dưỡng chất thiên nhiên” đã làm cho đồng ruộng ngày càng “suy dinh dưỡng”. Ngập lụt ở nông thôn cũng kéo theo ngập úng đô thị.       

Giải pháp chống ngập đô thị?

Viện Qui hoạch thủy lợi miền Nam đã đề xuất nhiều giải pháp chống ngập đô thị vùng ĐBSCL. Đó là các giải pháp công trình kiểm soát lũ, triều cường bằng hệ thống đê, cống đồng bộ, trạm bơm, hệ thống thoát nước... Nhưng quan trọng hơn vẫn là các giải pháp phi công trình.

Trong đó, đề xuất sử dụng phần đất trũng thấp ven sông, rạch và các hồ để tạo khu trữ, điều tiết nước; tạo vùng đệm; qui hoạch lại một cách hợp lý và đồng bộ các công trình thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản, sản xuất lúa, cây ăn trái theo cách tiếp cận vùng, không cục bộ địa phương, tránh xung đột lợi ích. 

Đồng quan điểm này, một số chuyên gia nghiên cứu nước ngoài cũng đề nghị kết hợp giải pháp công trình - phi công trình.

Theo đó, khi xây dựng công trình phải thống nhất mục tiêu kiểm soát lũ, “hy sinh” một phần diện tích trồng lúa vụ 3, nuôi thủy sản bằng cách cơ cấu lại sản xuất tại một số tiểu vùng để tạo dựng lại “túi chứa nước” ở khu vực Đồng Tháp Mười trong điều kiện mới.

Việc chống ngập tại các đô thị vùng ĐBSCL không chỉ là chuyện “quanh quẩn” ở khu vực đô thị, là việc của các thành phố, mà cần có cách tiếp cận vùng, là “chuyện lớn” của cả ĐBSCL và cả nước.

 

Theo Laodong

Các tin cũ hơn