Kinh tế "khu ổ chuột"

Thứ ba, 12/06/2012, 16:08
Dù muốn hay không, các khu nhà tạm bợ, thường được gọi là “khu ổ chuột”, cũng là một phần tất yếu của các đô thị mà Hà Nội hay TP.HCM không phải là ngoại lệ.
Giải tỏa trắng các khu vực này là mục tiêu và biện pháp được ưa thích của nhiều chính quyền, cho đến khi thực tế mang lại một câu trả lời đầy bất ngờ chính từ tiềm năng kinh tế không nhỏ của khu vực này.
 
Một góc “khu ổ chuột” tại khu phố 2, phường 15, quận Bình Thạnh, TP.HCM - Ảnh: Đình Dân

Vạn kiểu mưu sinh
 
Chỉ cách quận 1 đúng một dòng kênh, đi vào một nhánh kênh Nhiêu Lộc phía sau đường Bùi Hữu Nghĩa (khu phố 2, phường 15, quận Bình Thạnh, TP.HCM), những ngôi nhà chắp vá bằng tôn và bạt chen chúc bên dòng nước đen ngòm.

Phải lách người qua những dãy xe đẩy, gánh hàng rong treo những tấm biển cactông nguệch ngoạc ghi “hủ tíu”, “bún bò”, “nước mía”… tôi mới vào được gian phòng trọ của chị Nguyễn Thị Thời. Căn phòng chừng 14m2 như một cái lều nằm sát bên mé kênh.
 
Chị Thời vừa nấu ăn vừa xua lũ chuột cống to như bắp chân đang chui từ dưới kênh lên. Rời bỏ mấy sào ruộng ở xã Nghĩa Thương, huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi) đến TP.HCM đã 12 năm nay, hằng ngày chị Thời ra đường Điện Biên Phủ bán xôi cho sinh viên và dân văn phòng, chồng chị làm thợ hớt tóc ở tiệm của người anh họ.
 
“Sáng tôi bán từ 6g-10g, ngày ít kiếm được 100.000 đồng, ngày nhiều được 300.000 đồng, ông xã hớt tóc một ngày được 100.000-200.000 đồng, mỗi tháng hai vợ chồng tui kiếm được 10 triệu đồng - chị Thời tính - Trừ tiền nhà 1,1 triệu, tiền nuôi hai con ăn học mỗi tháng hết 2-3 triệu… tháng nào tằn tiện thì dành dụm được 1-2 triệu đồng”, chị Thời cho biết
 
Khu nhà trọ nơi chị Thời đang ở có 12 phòng với khoảng 60 người đều là dân từ các tỉnh miền Trung vào. Cả khu chỉ có ba gia đình có người làm công nhân ở khu công nghiệp, còn lại đều làm nghề buôn thúng bán bưng: ông Truyền, chị Bích bán cá viên chiên, bà Trang bán bún bò, chị Nhung bán xôi… Khá giả nhất là vợ chồng bà Trần Thị Đẹp làm nghề gò đồ đồng cho tiệm sửa xe. Sống cực nhưng chẳng ai nghĩ đến chuyện về quê.
 
Trong hẻm 304 (phường 3, quận 8), năm anh em ông Lê Văn Hùng đều làm “thợ đụng”. “Thợ đụng là đụng đâu làm đấy, ai thuê gì làm nấy, miễn là không phạm pháp mà có tiền nuôi gia đình” - ông Hùng vui vẻ nói.

Gắn với khu xóm nghèo này hơn 40 năm nay, ông Hùng đã qua đủ thứ nghề từ nấu chì, phụ hồ, sơn nước, xe ôm, xích lô…, vợ ông sau khi không gánh nổi gánh xôi nặng đã chuyển qua nghề giúp việc nhà.

Ở khu phố 6 nơi ông Hùng trú ngụ có gần 500 hộ gia đình sinh sống. Cũng như gia đình ông Hùng, các cư dân ở đây làm đủ thứ nghề để sinh sống.
 
Tại khu nhà tồi tàn nằm bên khu chung cư Vĩnh Lộc (quận Bình Tân) là hàng trăm người dân từ các tỉnh miền Tây như An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu… đến cư ngụ. Họ chỉ làm một nghề là kéo sợi dây thừng, nhận nguyên liệu từ các công ty rồi dùng máy tời và sức người kéo thành sợi dây thừng thành phẩm. Mỗi ngày một người kéo được vài trăm mét dây thừng, kiếm khoảng 200.000 đồng.
 
Xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh lại là nơi tập trung nhiều người dân đến từ tỉnh Bình Định làm nghề nuôi heo, cung cấp mỗi tháng hàng trăm tấn thịt heo cho TP.HCM và các tỉnh lân cận.

Anh Huỳnh Tấn Duy, chủ một trại heo, cho biết cuộc sống của họ như những người du mục, cứ đến vùng đất trống dựng lều xây trang trại nuôi heo, khi chính quyền quy hoạch lấy đất, họ lại chuyển đến bãi đất trống khác gầy dựng lại.
 
Quanh các khu công nghiệp, khu chế xuất là hàng trăm khu nhà xây tạm bợ, chứa cả ngàn công nhân nhập cư đổ về đây tìm việc. Có tới 70% trong tổng số 270.000 công nhân tại 14 khu chế xuất, khu công nghiệp của TP là dân nhập cư.
 
Căn nhà bề ngang 1,5m, dài 10m của bà Phạm Thị Phương Thanh bên sông dưới cầu chữ Y (phường 8, quận 8, TP.HCM) - Ảnh: Đình Dân

Nỗi lo “giải tỏa trắng”
 
Bà Năm - tổ trưởng tổ 28, khu phố 2, phường 15, quận Bình Thạnh - nói: “Chúng tôi luôn sống trong cảnh sẵn sàng ra đi vì lệnh giải tỏa. Những người như chúng tôi - là dân gốc có hộ khẩu - thì còn được hỗ trợ nơi ở mới, chỉ khổ cho những người dân nhập cư, giải tỏa rồi họ đi đâu và làm gì để kiếm sống?”. Khu hẻm tồi tàn này đã có thông tin giải tỏa từ 13 năm trước (1999) nhưng nay vẫn chưa thực hiện.
 
Theo bà Năm, tổ 28 có 54 hộ gia đình thì trên 20 hộ là dân nhập cư, sống bằng đủ nghề buôn thúng bán bưng. Chị Thời bán xôi cho biết đứa con nhỏ dưới 6 tuổi của chị không được hưởng bảo hiểm y tế, may là đứa lớn được học ở trường mà phường quy định.

“Ở khu này, sống chung với nước kênh hôi thối và lũ chuột cống vẫn còn hơn, vì làm sao thuê nổi những căn phòng 2-3 triệu đồng/tháng. Nay mai Nhà nước có quy hoạch mới lo, bị đuổi thì tụi tôi biết về đâu, về quê thì đất đai cũng chẳng còn”.
 
Khu nhà xập xệ “có tiếng” bên kênh Tàu Hủ, phường 10, quận 8 đã biến mất sau một lệnh giải tỏa trắng từ hai năm nay, cỏ mọc xanh rờn vào sâu tới 20m, nhưng nhiều dân cư cũ của khu này vẫn bám trụ quanh đó vì không thể bỏ công việc làm ăn.

Năm chị em chị Trần Thị Bé Chín vẫn quanh quẩn ở đây với những chiếc xe đẩy tỏa đi bán xôi khắp các ngả đường. “Sau khi nhận tiền đền bù giải tỏa, chị em tôi mua nhà ở huyện Bình Chánh nhưng để ông anh ở, còn năm chị em vẫn ở lại thuê nhà trọ để đi bán xôi, về đó sao sống được” - chị Chín kể.
 
Phấp phỏng với hai chữ “giải tỏa” treo trên đầu, hầu hết cư dân ở hàng loạt khu ổ chuột chúng tôi ghé tới đều lo âu về sinh kế sau khi giải tỏa. Bà Phạm Thị Út, 75 tuổi,  sống trong “xóm nước đen” dưới chân cầu chữ Y (phường 8, quận 8) với hai người con và hai đứa cháu nhỏ, than thở: “Tôi sống ở đây từ nhỏ bằng nghề bán hủ tíu, hồi đó vùng này lầy lội tồi tàn gấp mười lần bây giờ. Bao nhiêu năm sống thế này, chẳng có gì lo hơn chuyện phải rời đi”.
 
Ở khu phố 6, phường 3, quận 8, gần 500 hộ dân luôn trong diện giải tỏa từ sau giải phóng đến nay. Bà Bùi Thị Thanh, khu phố trưởng, nói: “Đến nay đã hàng chục năm, dân nghèo chúng tôi lo lắng không biết khi nào giải tỏa, người có của ăn của để cũng chẳng dám cơi nới sửa sang nhà cửa nên cứ tạm bợ và rách nát thế này”.
 
 
Nơi tập kết rác đồng thời là nơi ở của hàng trăm người dân ở Hoàng Cầu, Hà Nội - Ảnh: Hoàng Điệp

Những giấc mơ trong khu ổ chuột
 
Giữa bãi rác thải, phế liệu rộng hơn 1.000m2 trên đường Hoàng Cầu (phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội), trong căn phòng chon von gác trên những tấm xà gồ và cây chống như chuồng chim, chị Bùi Thị Tuyết vừa chuẩn bị bữa sáng cũng là bữa trưa vừa gom những mảnh gỗ nhỏ chừng nửa gang tay bỏ vào túi nilông: “Đêm qua tôi nhặt được ít gỗ vụn này trong một túi rác. Cất vào đây để hôm nào về quê thì mang về cho các cháu có cái đốt”.
 
Một ngày làm việc của chị Tuyết thường bắt đầu lúc 20g và kết thúc lúc 5g sáng hôm sau. Vài bao tải, một chiếc xe đạp và một chiếc que bằng sắt, chị rong ruổi khắp các tuyến phố quanh khu vực các quận Hoàn Kiếm, Đống Đa và Hai Bà Trưng nhặt rác.

Để ba con (lớn học lớp 10, nhỏ học lớp 3) ở quê tự chăm nhau, hai vợ chồng chị Tuyết bám trụ tại Hà Nội chục năm nay để kiếm tiền với mong ước duy nhất: lo cho các con được học hành tử tế, sau này đỡ khổ hơn cha mẹ. Mỗi tháng, trừ tiền thuê phòng (600.000 đồng), tiền điện, nước và ăn uống, chị dành dụm được khoảng 2 triệu đồng gửi về quê cho con ăn học.
 
Cũng như chị Tuyết và hàng trăm người thuê trọ ở khu bãi phế liệu này, lý do duy nhất mà chị Dung sống ở đây vì “tìm khắp Hà Nội lấy đâu ra một căn phòng (dù chỉ đủ chỗ cho hai mẹ con ngủ) với giá 550.000 đồng/tháng?”.

Căn phòng rộng chừng 2m2, ẩm mốc và dột nát. “Thật may -  chị Dung nói - Tôi có đứa con trai ngoan, hằng ngày ngoài giờ học giúp mẹ làm việc nhà. Gần 20 năm làm nghề nhặt rác, tôi chuyển đi nhiều nơi, cũng từ rác mà cháu có cơ hội thoát khỏi cuộc sống này. Cháu nay mới học năm 3 nhưng đã tìm được chỗ làm thêm kiếm tiền giúp mẹ”.
 
Khu xóm trọ trên phố Tây Kết gồm gần 20 gian phòng nhỏ bé xíu được dựng trên bãi đất trống của một hộ dân, khách thuê  là người mua đồng nát, thợ điện, xe ôm, bán than… Chiều muộn, chị Phạm Thị Thủy (Duy Tiên, Hà Nam) bế con gái nhỏ ra sau khu tập thể Hồ Việt Xô ngồi xem bố xếp than lên xe.

Vợ chồng chị đã rời quê ra Hà Nội cả chục năm, làm đủ nghề từ phục vụ nhà hàng, dọn nhà, giờ chọn việc bán than. Căn phòng bé xíu, được giới thiệu là “tươm tất nhất xóm” rộng chừng 7m2, kê được hai chiếc phản vừa là nơi ngủ, chỗ ăn cơm, tiếp khách.
 
Đem theo con gái chưa đầy tuổi và con trai lớn 15 tuổi, cả gia đình chị Thủy sống trong căn phòng thưng bằng ván, lợp tôn và dán bìa cactông, nilông. “Mỗi tháng trừ chi phí ăn tiêu, thuê nhà, cho hai cháu đi học, tụi tôi để dành được 3 triệu đồng. Cơ bản là các cháu đỡ khổ. Nhiều người cũng hỏi tôi về việc bỏ nhà cao ao sâu lên Hà Nội chật chội nhưng khi học ở đây các cháu được chăm sóc tốt hơn”.

 
Nói  về tương lai của cả gia đình, chị Thủy không ngần ngại: “Chúng tôi sống vất vả hơn, làm những công việc mà người thành phố không muốn làm, nhưng thu nhập tốt, tương lai chắc chắn tốt hơn. Con người dù ở đâu thì vẫn phải sống thật thà. Mình tử tế thì người khác sẽ tử tế lại với mình. Chỗ  con trai tôi học hay con bé đang gửi trẻ đều nhờ vào những người quen mới trên thành phố”.
 
Những xóm trọ tại Hoàng Cầu, Định Công, Tây Kết hay Vân Đồn… đều chật chội, bẩn thỉu, thiếu ánh sáng, dịch bệnh và nguy cơ hỏa hoạn luôn rình rập, thiếu tất cả nhu cầu tối thiểu dành cho cuộc sống.

Nhưng số lượng cư dân không bao giờ giảm, mọi cuộc giải tỏa đều chỉ khiến họ dạt từ nơi này qua nơi khác. Tất cả bám trụ lấy muôn vạn kiểu mưu sinh và không bao giờ tắt đi hi vọng về một sự đổi đời.
 
“Tư duy quy hoạch đô thị giậm chân tại chỗ 50 năm”
 
Cách đây sáu năm, Ngân hàng Thế giới (WB) khuyến cáo VN cần thay đổi cách làm quy hoạch. Cách đây 15-16 năm, Ngân hàng Phát triển châu Á cũng khuyến cáo như vậy. Đến nay vẫn không có gì thay đổi trong cách chúng tôi làm quy hoạch đô thị, chúng tôi vẫn quy hoạch đúng như vậy, giống như 50 năm trở lại đây. Tôi hi vọng WB sẽ tiếp tục tư vấn để chúng tôi làm sao thay đổi văn bản quy phạm pháp quy về quy hoạch đô thị vì theo tôi, thà không có quy hoạch còn hơn có quy hoạch tồi.
 
Điều mà tôi cảm thấy rất nguy hiểm đó là những ý kiến coi thường lĩnh vực phi chính quy, coi thường giá trị các “khu ổ chuột”. Họ coi rằng việc giải tỏa “khu ổ chuột” để xây dựng nhà ở theo phương thức chính quy là tương lai của đô thị VN. Nhưng theo tôi, đây là một quan điểm rất không bền vững.
 
Có nhà “ổ chuột” thì có nghĩa là người nghèo có nhà để ở, còn hơn là tất cả mọi nơi đều sạch sẽ như li như lau mà người nghèo thì đứng ngoài và luôn lệ thuộc vào việc cung cấp nhà ở của các khối chính quy.
 
BÀ HUỆ LINH
(Giám đốc Trung tâm quy hoạch 4, Viện Kiến trúc -
quy hoạch đô thị và nông thôn, Bộ Xây dựng)
 

Gom phế liệu để bán lại là nghề phổ biến của các cư dân khu ổ chuột - Ảnh: Hoàng Điệp

Lý do duy nhất khiến nhà “ổ chuột” không tràn lan ở VN như nhiều nước đang phát triển khác, theo các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB), là VN có chính sách cho phép, chấp nhận hoạt động xây dựng nhà ở tự phát, chi phí thấp cộng với sự năng động của các hoạt động xây dựng, cho thuê nhà ở quy mô nhỏ.

Người dân cũng được phép phân lô diện tích nhỏ, nhờ đó có điều kiện cân nhắc giữa vị trí và diện tích sử dụng (trong nhiều trường hợp, diện tích sử dụng chỉ 25m2).
 
Đây là một đặc điểm rất khác biệt nếu so sánh với những thành phố ở những nước thậm chí có thu nhập thành thị cao hơn (như Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Brazil...).
 
Ngoài ra, “chính tập quán của người Việt chấp nhận việc chung sống nhiều thế hệ ở cả nông thôn và thành thị cũng góp phần cải thiện phần nào điều kiện nhà ở cho các đối tượng thu nhập thấp nhiều hơn so với những nước có điều kiện tương đồng” - WB đánh giá.
 
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng khuyến cáo: mặc dù những mô hình này cho đến nay đã phát huy hiệu quả nhưng tỉ lệ và quy mô đô thị hóa của các thành phố ở VN trong vòng 20 năm nữa đòi hỏi phải có một chiến lược nhà ở thu nhập thấp cụ thể để tránh sự hình thành của những “khu ổ chuột” về sau này. Tăng thu nhập đô thị cũng sẽ dẫn đến tăng cầu về diện tích sử dụng trên đầu người.
 
Theo WB, mô hình đã và đang áp dụng ở VN có thể được tăng cường hiệu quả bằng việc chú trọng vào đối tượng người nghèo thành thị thông qua các cơ chế bao cấp phía cầu hướng đến những phân khúc thị trường yếu nhất dựa trên đặc điểm về cầu nhà ở của từng thành phố.

Do đất đai là yếu tố đầu vào thiết yếu trong cung ứng nhà ở, nên các chuyên gia cũng khuyến nghị chính sách nhà ở của VN phải có những cơ chế, hướng dẫn cụ thể để thị trường đất đai vận hành một cách hiệu quả và rộng khắp hơn.


Theo Tuổi Trẻ Cuối Tuần

Các tin cũ hơn