Những hậu quả của “Chủ nghĩa GDP” ở Trung Quốc

Thứ ba, 06/12/2011, 04:57
Trong bài viết mang tên “Chủ nghĩa GDP và suy thoái đạo đức ở Trung Quốc”, Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Niên lý giải vì sao Trung Quốc gặp khó khăn trong việc phát huy “quyền lực mềm”.


Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Niên cho rằng Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với nguy cơ xảy ra những vụ rối loạn xã hội lớn. (Ảnh minh họa)

 


Sau hơn 20 năm có tỉ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình hơn 10% một năm, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới trong năm 2010. “Phép lạ kinh tế Trung Quốc” đã đưa hàng trăm triệu người thoát cảnh nghèo túng và làm cho một số người Trung Quốc cảm thấy rất hãnh diện và họ cho rằng đất nước của họ giờ đây đã có đủ khả năng để “tranh hùng, tranh bá” với Mỹ.

Một số người cho rằng mô thức phát triển của Trung Quốc có thể làm gương cho các nước thế giới thứ ba và Bắc Kinh  nên tăng cường phát huy “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, cũng có nhiều người nói rằng thành quả kinh tế của Trung Quốc đã được đánh đổi với những cái giá quá đắt, trong đó có sự hủy hoại môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội.

Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Niên, Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Á của Đại học Quốc gia Singapore, nói rằng việc ban lãnh đạo Trung Quốc chú trọng quá độ đến tốc độ tăng trưởng kinh tế đã làm cho đạo đức trong xã hội bị suy thoái nghiêm trọng.

Trong bài mang tên “Chủ nghĩa GDP và suy thoái  đạo đức ở Trung Quốc”, Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Niên nhận định Trung Quốc ngày nay có hai hiện tượng nổi bật tồn tại cùng một lúc: kinh tế phát triển nhanh chóng trong ba thập kỷ qua đã tạo ra một phép lạ trong lịch sử kinh tế thế giới và suy thoái đạo đức xã hội.

Hai hiện tượng này có thể phát xuất từ cùng một nguồn gốc: đó là “Chủ nghĩa GDP” ngày càng thịnh hành trong xã hội.  

Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Niên giải thích: “Trong một thời gian dài, ‘Chủ nghĩa GDP’ là chính sách tổng thể của chính phủ Trung Quốc để kích thích phát triển kinh tế. Chính phủ thiết lập một mục tiêu phát triển định lượng, rồi mang mục tiêu này phân giải ‘một cách khoa học’ và ra lệnh cho các quan chức ở các cấp thực hiện. Đương nhiên, tăng trưởng GDP đã trở thành chỉ tiêu quan trọng nhất để thăng quan tiến chức. Nhìn từ góc độ này, có vẻ như rất khó để đổ lỗi cho cán bộ các cấp, bởi vì chỉ tiêu GDP đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của hệ thống chính trị. Tất nhiên, đối với các quan chức ở các cấp, GDP không chỉ là quyền lợi chính trị, mà còn là lợi ích kinh tế. Một khi kinh tế phát triển thì quan chức các cấp sẽ có được những lợi ích kinh tế đáng kể”.

Nhiều người ở Trung Quốc cũng như ở nước khác trên thế giới đã từng nói đến những khía cạnh tiêu cực trong quá trình phát triển của Trung Quốc như chênh lệch giàu nghèo quá cao, quyền lợi của giới lao động không được bảo vệ thỏa đáng và môi trường thiên nhiên bị xuống cấp nghiêm trọng.

Nhưng theo Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Niên, cái giá phả trả lớn nhất của mô thức phát triển này là sự băng hoại của hệ thống đạo đức, làm tan biến lòng tin giữa các nhóm người và giữa con người với con người ở Trung Quốc. Ông giải thích: “Cốt lõi của chủ nghĩa GDP là làm thế nào để ‘tiền tệ hóa’ mọi thứ, hay nói như Marx là ‘thương phẩm hóa’. Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông không nói tới ‘thương phẩm hóa’. Khi đó, tất cả mọi thứ đều bị chính trị hóa, có nghĩa là mọi thứ được phân phối thông qua quyền lực chính trị. Vì cơ chế thị trường bị loại trừ nên kinh tế phát triển thiếu hiệu quả, dẫn đến sự nghèo đói. Sau khi cải cách và mở cửa, kinh tế thị trường được tái lập. Cơ chế thị trường dẫn đến việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực và nhờ đó mà kinh tế đã phát triển mạnh”.

Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Niên cho rằng sự phát triển kinh tế và phát triển xã hội của Trung Quốc bị mất cân đối nghiêm trọng, dẫn đến sự chuyển đổi từ “lấy con người làm gốc” (dĩ nhân vi bản) sang “lấy tiền làm gốc” (dĩ tiền vi bản).
 
Ông Trịnh Vĩnh Niênnhận định: “Các quan chức các cấp đã ‘phát minh’ rất nhiều cách thức khác nhau. Nhiều nơi, chính quyền tìm đủ mọi cách để sử dụng tất cả những phương pháp có thể để thúc đẩy cho kinh tế địa phương được phát triển và thậm chí còn dung túng và khuyến khích người dân phát triển ‘kinh tế bán máu’ (việc này đã tạo ra rất nhiều làng AIDS ở tỉnh Hà Nam). Một số quan chức nhà nước thoái hóa đã thúc đẩy nhanh quá trình tiền tệ hóa các mối quan hệ xã hội."

Ông Trịnh Vĩnh Niên cho rằng “Chủ nghĩa GDP” đã làm cho người lao động đã bị bóc lột thậm tệ: “Trong bất kỳ nền kinh tế thị trường nào người dân cũng phải thương mại hóa hoặc tiền tệ hóa sức lao động của mình. Đây chính là điểm kết hợp giữa cá nhân với xã hội và kinh tế. Điều này cũng cho thấy rằng sức lao động mà người dân bán ra ít nhất phải đủ để họ sống còn và dựa vào đó để phát triển thêm. Tuy nhiên, dưới sự khống chế của tư bản và quyền lực, thực tế ở Trung Quốc là lao động đã trở thành những thứ kém giá trị nhất. Ví dụ, tại các công ty của những nước phát triển, tiền lương trong chi phí hoạt động chung chiếm đến 50%, nhưng tỉ lệ này trong doanh nghiệp của Trung Quốc lại chưa tới 10%. Ở các nước phát triển, tiền lương của công nhân chiếm khoảng 55% thu nhập quốc dân, nhưng ở Trung Quốc tỉ lệ này chưa đầy 42%... Vì việc bán sức lao động không đủ để duy trì sinh kế và để tồn tại, người dân sẽ phải bán tất cả những thứ khác có thể bán, kể cả thân xác của mình. Và tất nhiên, việc trộm cắp, cướp bóc, cướp người giàu để phát cho người nghèo, cùng với mọi hành động bạo lực phát xuất từ đó cũng trở thành một việc hợp lý đối với người trong cuộc”.

Tiến sĩ Trịnh Vĩnh Niên cho rằng Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với nguy cơ xảy ra những vụ rối loạn xã hội lớn. Vấn đề then chốt hiện nay là  liệu Trung Quốc có đủ thời gian để xây dựng lại các hệ thống đạo đức xã hội trước khi rối loạn xảy ra.


Theo Tầm Nhìn

Các tin cũ hơn