Thông điệp đầu năm 2012 của Thống đốc Bình

Thứ hai, 02/01/2012, 09:09
“Tổ chức tín dụng nào không thể phục hồi được sẽ đưa ra khỏi thị trường một cách có trật tự…”.

 

 

3 ngân hàng đầu tiên hợp nhất trong lộ trình tái cơ cấu ngành ngân hàng của CP.


“Các tổ chức tín dụng (TCTD) lành mạnh được tạo điều kiện phát triển về quy mô và năng lực cạnh tranh trong nước, quốc tế. Các tổ chức tín dụng yếu kém, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn hệ thống cần được ưu tiên tái cơ cấu để trở lại thị trường hoạt động theo các chuẩn mực, quy định của pháp luật. Nếu tổ chức tín dụng yếu kém không thể phục hồi được thì phải được kiên quyết đưa ra khỏi thị trường một cách có trật tự để bảo đảm kỷ luật thị trường và sự lành mạnh, an toàn của hệ thống”.

Đây là khẳng định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình tại buổi trao đổi với báo chí nhân dịp năm mới 2012.
 
“Ngành ngân hàng đóng góp rất quan trọng vào kiềm chế lạm phát”

Thưa Thống đốc, năm 2011 ngành ngân hàng đã góp phần thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát như thế nào?
 
Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Năm 2011, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng đạt 12 – 13%. Đây là mức thấp nhất trong suốt quá trình đổi mới của nền kinh tế. Trung bình 10 năm qua (2000 – 2011) tăng trưởng tín dụng ngân hàng là 29,4%; 5 năm gần đây (2006 – 2011) con số này là 33%.

Năm 2011 chúng ta đã kiềm chế lạm phát được ở mức 18%. Hãy thử giả định rằng năm 2011 tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng cũng ở mức 29,4% hoặc 33% thì lạm phát sẽ ở mức nào? Theo tính toán sơ bộ của chúng tôi thì lạm phát sẽ ở mức 25% đến 27%. Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động tín dụng ngân hàng đã có đóng góp rất quan trọng vào kiềm chế lạm phát.

Hoạt động ngân hàng cũng đóng góp to lớn vào tăng trưởng hợp lý của nền kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư. Tăng trưởng kinh tế năm 2011 của Việt Nam sẽ vào khoảng 5,9% - 6%, đây là mức tăng trưởng hợp lý (không nóng quá mà cũng không làm mất đi động lực của quá trình phát triển lâu dài).

Ở nước ta, hệ thống ngân hàng đáp ứng trên 80% nhu cầu vốn của cả nền kinh tế. Những năm trước đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng không cao hơn bao nhiêu (7%, 8%), nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng thường gấp từ 5 đến 7 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Năm 2011 tỷ lệ này chỉ là 2 lần. Điều này cho thấy tín dụng ngân hàng đã được đầu tư hiệu quả hơn. Thực tiễn đã chứng minh điều đó.

Mặc dù tín dụng chung cho cả nền kinh tế chỉ tăng 12 - 13% nhưng tín dụng cho khu vực sản xuất đã tăng trên 15%, tín dụng cho phi sản xuất, đặc biệt là cho bất động sản, chứng khoán giảm mạnh. Các lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế như sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu đã được ưu tiên vốn ở mức tối đa. Trong năm 2011, tín dụng cho nông nghiệp trung bình đạt 25% (có những thời vụ trên 30%).

Cả năm 2011, tín dụng cho xuất khẩu đã đạt mức tăng trưởng kỷ lục là 58%. Do vậy, mặc dù kinh tế thế giới và các thị trường xuất khẩu truyền thống của nước ta đang hết sức khó khăn nhưng tăng trưởng xuất khẩu của ta rất ấn tượng với mức tăng trên 30% (cao hơn nhiều so với mức dự kiến 10% - 13%).

Hoạt động của hệ thống ngân hàng năm 2011 cũng đã góp phần điều chỉnh mức đầu tư toàn xã hội quá nóng trong những năm trước đây (từ mức trung bình 42% - 44% xuống mức 35% - 37%). Trong khi đó, hiệu quả đầu tư được nâng lên rõ rệt.

TCTD đang tiềm ẩn những yếu kém

Thưa Thống đốc, vì sao đến thời điểm này Chính phủ phải quyết liệt đặt ra vấn đề tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Cùng với sự phát triển nhanh về quy mô, các TCTD hiện nay đang tiềm ẩn những yếu kém, rủi ro nhất định. Hệ thống các TCTD tiềm ẩn rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản khá cao, tính ổn định, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh chưa cao.    

Nguyên nhân của những yếu kém này xuất phát từ những yếu tố khách quan như kinh tế vĩ mô trong nước, ngoài nước kém ổn định, hệ thống doanh nghiệp nhiều yếu kém, khuôn khổ thể chế còn bất cập,…. Và yếu tố chủ quan gồm: năng lực quản trị, điều hành, tài chính, trình độ cán bộ và công nghệ nhiều hạn chế,….

Trong suốt thời gian dài vừa qua, Đảng và Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD ra đời và phát triển nhanh nhưng chất lượng, hiệu quả hoạt động của các TCTD chậm được cải thiện, nhiều yếu kém không được xử lý kịp thời, triệt để. Các TCTD hoạt động thiếu công khai, minh bạch. Nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng không được đề cao. Khuôn khổ pháp lý chậm được đổi mới và hoàn thiện theo yêu cầu thực tiễn.

Những yếu kém hiện nay của một bộ phận các TCTD không được xử lý kịp thời có thể tác động bất lợi đến ổn định kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Quy mô dư nợ tín dụng và tài sản của hệ thống các TCTD đã vượt xa GDP làm cho hệ thống các TCTD dễ bị tổn thương từ những thay đổi bất lợi của nền kinh tế, ngược lại sự bất ổn của hệ thống các TCTD cũng sẽ tác động lớn đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.

Một hệ thống ngân hàng yếu kém không thể huy động và phân bổ một cách có  hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế, đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách tiền tệ. Do đó, cơ cấu lại hệ thống các TCTD là yêu cầu cần thiết để lành mạnh hóa, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các TCTD, từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao hiệu quả đầu tư và tăng trưởng kinh tế bền vững.

Để thực hiện mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, Việt Nam cần phát triển một hệ thống các TCTD có quy mô lớn hơn, chất lượng và hiệu quả hoạt động tốt hơn. Đồng thời, trong bối cảnh Việt Nam đang ngày mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế sâu sắc thì hệ thống các TCTD cũng cần phải được củng cố và phát triển để có đủ khả năng tận dụng cơ hội phát triển mới và đối phó với những thách thức, cú sốc từ bên ngoài, chẳng hạn khủng hoảng, biến động bất lợi của thị trường tài chính – tiền tệ quốc tế.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình

Kiên quyết không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng

Xin Thống đốc cho biết mục tiêu tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng lần này là gì?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Theo tôi, mục tiêu tái cơ cấu hệ thống các TCTD lần này nhằm hướng tới đến năm 2020 phát triển được hệ thống các TCTD đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế.

Trong giai đoạn 2011-2015, tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các TCTD; Cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các TCTD; Nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng. Phấn đấu đến cuối năm 2015 hình thành được ít nhất 1-2 ngân hàng thương mại có quy mô và trình độ tương đương với các ngân hàng trong khu vực.

Theo đó, các TCTD Việt Nam sẽ được cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị và sở hữu bằng các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp. Chính phủ kiên quyết không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát trong quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD.

Vậy làm thế nào để cải cách nhanh, triệt để hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, thưa Thống đốc?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Kinh nghiệm của các nước cho thấy muốn cải cách nhanh, triệt để hệ thống ngân hàng thì chính phủ phải đóng vai trò quyết định thông qua các biện pháp can thiệp về chính sách, nguồn lực tài chính, đồng thời phải khuyến khích được sự tham gia của khu vực tư nhân vào quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Cải cách bao giờ cũng kèm theo chi phí kinh tế.

Để hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, hiệu quả bền vững sau cơ cấu lại thì cơ cấu lại tài chính là quan trọng nhưng cơ cấu lại quản trị, hoạt động và kể cả khuôn khổ thể chế là yếu tố quyết định. Thông thường, thời điểm được coi là hợp lý để cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng khi nền kinh tế có mức lạm phát tương đối thấp để tạo dư địa cho sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ và ngân hàng trung ương vào hệ thống tài chính - ngân hàng. Kế hoạch cơ cấu lại hệ thống các TCTD ở Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn.

Theo Thống đốc, những thuận lợi và khó khăn của việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam trong thời điểm hiện nay là gì?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Về thuận lợi, cơ cấu lại hệ thống các TCTD được đặt trong chương trình tổng thể tái cơ cấu đầu tư và tái cơ cấu doanh nghiệp để thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế. Mục đích cơ cấu lại các TCTD là vì lợi ích quốc gia, dân tộc chứ không vì lợi ích nhóm cục bộ. Do đó, cơ cấu lại hệ thống các TCTD nhận được sự quyết tâm và đồng thuận cao về mặt chính trị - xã hội. Các TCTD ý thức rõ ràng về sự cần thiết phải cơ cấu lại để hoạt động an toàn và hiệu quả hơn.

Về khó khăn, nền kinh tế đang chịu áp lực lạm phát cao và còn tồn tại những yếu tố có thể gây bất ổn vĩ mô. Nguồn lực của Chính phủ hạn chế do thâm hụt ngân sách lớn, nợ công đã ở mức cao và đang tăng nhanh. Các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ tập trung kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Khuôn khổ pháp lý cho việc cơ cấu lại doanh nghiệp, tài chính, ngân hàng chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, đặc biệt là vấn đề phá sản, quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tài chính. Kinh tế, tài chính thế giới diễn biến không thuận lợi. Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu có nguy cơ trở thành cuộc khủng hoảng tài chính tác động bất lợi đến hệ thống ngân hàng trong nước.

Ngoài ra, tâm lý người dân không ổn định dễ phản ứng thái quá nếu không được định hướng đúng đắn và tuyên truyền đầy đủ về các chủ trương, chính sách cơ cấu lại ngân hàng.

"Ra khỏi thị trường một cách có trật tự"

Vậy Ngân hàng Nhà  nước sẽ đề xuất với Chính phủ các gói giải pháp đồng bộ nào để cơ cấu lại các tổ chức tín dụng hiện nay?

Thống đốc Nguyễn Văn Bình: Để thực hiện được các mục tiêu, định hướng nêu trên, NHNN đã nghiên cứu và đề xuất gói giải pháp đồng bộ cơ cấu lại các TCTD như sau:

Thứ nhất, khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống, một số TCTD có mức độ rủi ro, nguy cơ mất an toàn cao sẽ được áp dụng các biện pháp xử lý đặc biệt theo quy định của pháp luật. Về phương diện các TCTD, cơ cấu lại TCTD cũng là cơ hội thuận lợi để các TCTD tăng nhanh hơn về quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh.

Thứ hai, các TCTD cần được đánh giá, phân loại thành TCTD lành mạnh, TCTD thiếu thanh khoản tạm thời và TCTD yếu kém. Các TCTD lành mạnh được tạo điều kiện phát triển về quy mô và năng lực cạnh tranh trong nước, quốc tế. Các TCTD yếu kém, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn hệ thống cần được ưu tiên tái cơ cấu để trở lại thị trường hoạt động theo các chuẩn mực, quy định của pháp luật. Nếu TCTD yếu kém không thể phục hồi được thì phải được kiên quyết đưa ra khỏi thị trường một cách có trật tự để bảo đảm kỷ luật thị trường và sự lành mạnh, an toàn của hệ thống các TCTD. TCTD tạm thời thiếu thanh khoản sẽ được NHNN hỗ trợ để phục hồi, đồng thời phải chấn chỉnh, củng cố để hoạt động lành mạnh, an toàn hơn.

Thứ ba, trong quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD, đặc biệt là xử lý những TCTD yếu kém, các NHTMNN và các NHTMCP lành mạnh sẽ là lực lượng chủ lực tham gia tích cực với sự hỗ trợ thích hợp của Chính phủ và NHNN về cơ chế, chính sách và nguồn lực để thực hiện. Đây cũng là đặc trưng riêng phản ánh tính hệ thống chặt chẽ của các TCTD. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa Chính phủ và NHNN “bao cấp” toàn bộ cho việc cơ cấu lại TCTD. Tổn thất và chi phí trong quá trình xử lý yếu kém của hệ thống các TCTD cần phải được chia sẻ hợp lý giữa các bên có liên quan theo quy định của pháp luật (Nhà nước, chủ sở hữu, nhà đầu tư và người gửi tiền). Trong đó, chủ sở hữu ngân hàng phải chịu trách nhiệm đầu tiên và cuối cùng về những tổn thất xảy ra đối với TCTD và lợi ích của Nhà nước, tài sản của nhân dân phải được bảo vệ tốt nhất.

Thứ tư, thực hiện lành mạnh hóa tài chính với trọng tâm là xử lý nợ xấu, bảo đảm mức độ đủ vốn theo quy định của pháp luật và thay đổi cấu trúc của bảng cân đối kế toán theo hướng lành mạnh, bền vững hơn.

Thứ năm, củng cố, phát triển các hoạt động kinh doanh chính và giảm các lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro, kém hiệu quả của TCTD. Tập trung tín dụng ngân hàng vào các ngành, lĩnh vực thuộc 3 khâu đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 và phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, sản xuất – chế biến, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng.

Thứ sáu, đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp hơn các thông lệ chuẩn mực quốc tế với trọng tâm là triển khai các hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của Ủy ban Basel. Tăng tính minh bạch hóa hoạt động ngân hàng và tính đại chúng của các TCTD.

Xin cảm ơn Thống đốc!

 

Theo NDHMoney

Các tin mới hơn

Các tin cũ hơn