Thực hư giới tính của danh tướng lẫy lừng thời Lê-Trịnh

Thứ ba, 20/08/2013, 09:04
Ngày nay, các nguồn sử liệu còn lại không ghi chép rõ quá trình Hoàng Ngũ Phúc nhập cung làm thái giám như thế nào và thời gian ông làm việc trong nội cung ra sao. Tuy nhiên, khi chuyển từ một hoạn quan sang võ tướng, ông liên tiếp lập công lớn và được giới sử học ngày nay đánh giá là một danh tướng bất khả chiến bại.

Cơ duyên và con đường nhập cung

Khác với Lý Thường Kiệt là đã từng có văn bia, bản sắc phong là có vợ, con trước khi tịnh thân vào cung, Hoàng Ngũ Phúc (1713 - 1776) sinh tại xóm Gianh, thôn Khang Cù, xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang), vào cung làm thái giám từ nhỏ. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng có tinh thần thượng võ.

Sách Lịch triều Hiến chương loại chú chép như sau: "Ông người làng Phụng Công, huyện Yên Dũng, trấn Kinh Bắc, lúc trẻ vì tự thiến được vào hầu trong cung". Theo ngọc phả của họ Hoàng Đình ở Phụng Công, Yên Dũng, Bắc Giang ghi lại, thì Hoàng Ngũ Phúc từ nhỏ đã mồ côi cha, nhà nghèo, được người cậu ruột nhận nuôi.

phi gioi tinh

Tượng thờ Hoàng Ngũ Phúc tại đền thờ ông ở xã Tâm Mỹ, huyện Yên Dũng, Bắc Giang ngày nay.

Xem tướng để chọn minh quân

Sự nghiệp quan trường của Hoàng Ngũ Phúc bắt đầu được biết đến từ năm 1740, khi được trao chức Tả thiếu giám (tức tòng ngũ phẩm) và từ đó thăng quan, tiến chức rất nhanh. Để lý giải cho việc này, hiện nay tồn tại một truyền thuyết về việc ông đã xem tướng để ... chọn chúa.

Chuyện kể rằng, khi chưa có chút danh vọng gì với đời, Hoàng Ngũ Phúc kết thân với một viên hoạn quan trong phủ chúa.

Khi chúa Trịnh Giang (1729-1740) lâm bệnh nặng, chính sự trở nên rối ren, viên hoạn quan kia bèn mật bàn với Hoàng Ngũ Phúc, định vào chốn rừng sâu, tập hợp binh mã để tạo phản nhưng ông không theo.

Thế rồi, ngay ngày hôm đó, khi đi ngang qua phía trước phủ chúa, ông thấy người em cùng mẹ của chúa Trịnh Giang là Trịnh Doanh đang ngồi chơi chọi gà với chúng bạn.

Sau hồi ngắm nghía tướng mạo Trịnh Doanh, Hoàng Ngũ Phúc quả quyết, đây là bậc chân chúa cần phải thờ.

Sau đó, ông sửa soạn lễ vật đến ra mắt và xin làm bề tôi. Sau này, khi Trịnh Doanh lên thay chúa Trịnh Giang, nhớ tới công Hoàng Ngũ Phúc sớm phò tá nên đã tin dùng ông như một cận thần.

Từ nhỏ, Hoàng Ngũ Phúc đã được đánh giá là người nổi tiếng thông minh và hay có những ý tưởng độc đáo làm người xung quanh bất ngờ.

Chuyện kể rằng, thuở nhỏ, Hoàng Ngũ Phúc thường cầm đầu bọn trẻ chăn trâu ở quê nhà, chơi trò bài binh bố trận.

Ông thường lấy đất sét nặn voi, bốn chân voi đặt lên mai bốn con cua, vòi voi bằng con đỉa trâu, tai voi được làm bằng hai con bướm lớn. Con voi chuyển động, ngoe nguẩy cái vòi, vẫy tai tiến ra trận trông rất hiên ngang.

Lúc bấy giờ ở làng Vân Cốc (Bài Xanh,Yên Dũng, Bắc Giang) có dòng họ Dương đang là một thế lực lớn trong triều Lê - Trịnh ở Thăng Long, trong đó phải kể đến Thượng thư bộ binh Dương Quốc Cơ.

Tương truyền, trong một lần trên đường kinh lý về quê, Dương Quốc Cơ thấy một đứa trẻ chơi trò trận mạc, đang điều khiển một đàn voi đất, tả xung hữu đột, hò hét vang trời.

Điều lạ là đứa trẻ đi đến đâu là có mây hồng che đến đấy. Thượng thư thấy rất lạ và nghĩ, đứa trẻ này tất sẽ làm nên nghiệp lớn nên đã nhận làm con nuôi, cho ăn học rồi cho theo vào kinh. Đứa trẻ đó chính là Hoàng Ngũ Phúc.

Có thể nói rằng, việc được Thượng thư Dương Quốc Cơ nhận làm con nuôi, chính là một dấu mốc quan trọng đầu tiên trong cuộc đời vị danh tướng này. Bởi lẽ, chính vị Thượng thư này đã mở cho ông cánh cửa để tiến thân, nhập triều.

Các bộ chính sử ngày đó đều không chép năm Hoàng Ngũ Phúc nhập triều làm thái giám. Tuy vậy, dựa vào những căn cứ đã nêu ở trên thì có thể đoán rằng, Hoàng Ngũ Phúc tự nguyện tịnh thân (tức tự thiến) như một cách thức để nhập triều, xem ra là đúng.

Trong việc này, chưa nhà sử học nào nhận định về vai trò định hướng của người cha nuôi Thượng thư Dương Quốc Cơ đối với Hoàng Ngũ Phúc. Bởi lẽ, khi tịnh thân ông còn nhỏ tuổi nên khó có thể nhận thức được vấn đề này. Vì thế, có thể đoán rằng, chính Dương Quốc Cơ là người định hướng cho ông làm hoạn quan và trực tiếp đưa ông vào hầu hạ trong phủ chúa.

phi gioi tinh

PGS.TS Lâm Bá Nam: Tôi cho rằng ông là con người không thuận chiều trong tiến trình phát triển.

Danh tướng bất khả chiến bại

Vị quan đặc biệt

PGS.TS Lâm Bá Nam (trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội) cho biết: "Xét về góc độ sử học, lại đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể thời Lê - Trịnh, chúng ta thấy ông là một vị quan đặc biệt.

Xuất thân lập nghiệp từ một hoạn quan nhưng Hoàng Ngũ Phúc lại được xếp vào hạng danh sĩ văn võ toàn tài.

Trong bối cảnh khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam, tôi gọi ông, cũng như Hồ Quý Ly là những con người không thuận chiều trong tiến trình phát triển".

Sự nghiệp võ quan của Hoàng Ngũ Phúc bắt đầu được sử sách ghi nhận khi ông dâng 12 điều binh pháp lên chúa Trịnh Doanh và được chấp nhận năm 1743.

Sách Đại Việt sử ký tục biên, chép: “Tháng 2 (năm 1743) cho Tả thiếu giám Hoàng Ngũ Phúc làm Đốc lĩnh đạo kỳ binh. Hoàng Ngũ Phúc dâng lên 12 điều về binh pháp và được chúa Trịnh Doanh chấp nhận, sai đưa ra thi hành”.

Tương truyền rằng, khi nghe mệnh lệnh của chúa thì Hoàng Ngũ Phúc rất lo sợ vì từ trước tới giờ chưa quen trận mạc, binh đao. Lúc ấy, có người khách (chỉ người Trung Quốc) khuyên rằng: "Tướng công nên vay một vạn quan tiền trong kho công của Nhà nước để dùng mà mộ tráng sĩ cho mình".

Thấy Hoàng Ngũ Phúc còn đắn đo, lo sợ không trả được nợ, người này lại tiếp: "Tục ngữ có câu rằng "Tướng vô tài, sĩ bất lai", nghĩa là người làm tướng mà không có của cải thì dũng sĩ chẳng bao giờ tìm đến.

Nếu như tướng công thật lòng nghe kế sách của tôi, thì tráng sĩ đều hết sức vì tướng công và quyết thắng địch. Thắng rồi tướng công đã sang lại còn giàu, lo gì khoản nợ một vạn quan tiền? Còn như, nếu lỡ bị sa cơ đến chỗ không thể nói được nữa thì còn ai nỡ trách cứ món nợ? Mà trách cứ vào đâu được chứ".

Ông cho rằng phải, bèn vay tiền, tuyển mộ tráng sĩ, hợp quân với Hoàng Công Kỳ (người này cũng là một hoạn quan có tiếng cùng thời với Hoàng Ngũ Phúc) đánh tan quân của phản loạn Nguyễn Hữu Cầu. Cũng kể từ đó, sự nghiệp quân sự của ông liên tục gặt hái được những thành công vang dội.

Năm 31 tuổi (1744), Hoàng Ngũ Phúc giữ chức trấn thủ Hải Dương, rồi Kinh Bắc, kiêm thống lĩnh Bắc đạo, Tả đô đốc, tước hiệp Quận công. Chỉ chưa đầy một năm, ông đã thống lĩnh quân, dẹp yên loạn Đông, Nam, Bắc. Năm 37 tuổi (1750), ông làm Tổng tư lệnh Bình Tây.

Sau 43 ngày, ông  bắt sống thảo khấu Nguyễn Danh Phương dâng nộp, khi bình công đứng thứ nhất, được gia phong Đại tư đồ kiêm trấn thủ Sơn Nam, Hải Dương. Ông được sử sách khen ngợi là: "Tính cẩn thận, chắc chắn, có trí mưu". Khi trấn thủ Sơn Nam, Hải Dương, ông có công giúp triều đình mở nước sinh dân, đưa đất nước thịnh trị hơn mọi triều đại trước. Đối với bên ngoài thì bốn nước xung quanh phải phụ thuộc, ngoại xâm không dám nhòm ngó.

Hoàng Ngũ Phúc xin cáo quan năm 1774, tuy nhiên cùng năm đó lại được mời ra giúp việc nước, thống lĩnh đại quân, được phép "Tùy nghi hành sự" đem quân đi bình định vùng đất Thuận - Quảng. Chiến tích lớn nhất trong đời binh nghiệp của ông là vượt Lũy Thầy (chiến lũy mà trong hơn 200 năm trước đó, quân Lê - Trịnh không thể phá nổi) mà đạn không tốn một viên, quân không mất một người.

Ông đem quân vào lấy Phú Xuân, thu giang sơn về một mối, được phong Bình Nam Thượng tướng kiêm Đại Thống soái đất Thuận - Quảng. Ông mất trên binh thuyền khi quân Trịnh rút về đến Vĩnh Dinh, trấn Nghệ An, thọ 64 tuổi.

Đánh giá về sự nghiệp của Hoàng Ngũ Phúc, GS sử học Lê Văn Lan nhận định: "Trong hơn 30 năm binh nghiệp của danh tướng Hoàng Ngũ Phúc, chúng ta thấy gồm một chuỗi các hoạt động quân sự, đến 26 sự kiện. Trải qua hàng loạt sự kiện đó, chúng ta thấy rằng, trước hết ông là một vị tướng chưa hề biết bại là gì. Điều này thể hiện tài năng quân sự đã đành, nhưng điều quan trọng hơn, nó thể hiện tư chất đặc biệt của một vị võ tướng từ tư duy chiến thuật, chiến lược, cách thức đánh trận rất quyết liệt, thông minh của vị tướng vốn sinh ra là để đánh trận".    

Theo Nguoiduatin

Các tin cũ hơn